TheáoviênHSđangđánhvậtvớichươngtrìkq campuchiao các chuyên gia, nhà giáo, học sinh đang “đánh vật” với những bài toán khó,bài văn mang tính đánh đố mà những kiến thức đó hoàn toàn xa rời thực tế cuộc sống.
Thừa điều không cần, thiếu điều cần GS Đinh Quang Báo, ban thường trực Đề án đổi mới chương trình giáo dục phổ thôngsau 2015, nhận định: “Chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện nay quá tải là do nặngvề những điều không thật sự cần thiết, thiếu vắng những điều cần cho cuộc sống”.
Đánh giá môn toán trong SGK phổ thông hiện hành, PGS Văn Như Cương, Hiệu trưởngTrường THPT Lương Thế Vinh (Hà Nội), cho rằng nhìn chung SGK hiện nay quá sức đối vớiđại bộ phận học sinh. Môn toán chỉ được học 3 tiết/tuần cho ban cơ bản và 4 tiết/tuầncho ban khoa học tự nhiên là rất ít so với với thế giới. “Thời gian ít như vậy nhưngSGK lại chứa một lượng kiến thức khá lớn. Kiến thức lại nặng tính hàn lâm, thiếu phầnliên hệ thực tế hoặc hoàn toàn xa rời với thực tế cuộc sống, làm cho việc học tập củahọc sinh rất nặng nề, khổ sở”, ông Cương phân tích. Nhiều kiến thức trong chương trình hoàn toàn không cần thiết đối với bậc phổthông. Ông Cương nêu ví dụ: “Nếu không phải là giáo viên dạy toán thì không cần đếnkiến thức về số phức. Thế mà kiến thức đó vẫn phải dạy, phải học”. Ông Cương nhậnđịnh: “Có thể nói rằng, 1/3 kiến thức môn toán ở bậc THPT là vô bổ đối với học sinhhọc xong bậc học này”.
Cùng chung nhận định này, ông Nguyễn Quang Phương, giáo viên dạy toán Trường THCSNguyễn Trường Tộ, Q.Ba Đình (Hà Nội), cho rằng nhiều nội dung kiến thức còn nặng. ÔngPhương lấy ví dụ: Ở lớp 9 có hẳn một chương về hình học không gian, trước đây họcsinh bậc THPT mới phải học đến. Khi thực hiện chương trình năm 2002, Bộ GD-ĐT muốnthực hiện phân luồng sau THCS nên đẩy phần kiến thức đó xuống lớp 9 với mong muốn họcsinh tốt nghiệp THCS nếu không học tiếp vẫn được học về nội dung này. Tuy nhiên, phânluồng không thực hiện được nhưng học sinh THCS vẫn phải ì ạch “gánh” phần nội dungnặng so với lứa tuổi. Về môn ngữ văn, ông Nguyễn Quang Huy, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 2, nhìn nhận:“Nhiều nội dung không phù hợp với tâm lý và xu hướng đọc sách của các em hiện nay, dođó không khơi gợi được hứng thú trong học tập”. Giáo viên còn mệt, huống gì học sinh! Đối với chương trình tiểu học, bà Nguyễn Thị Hiền, Hiệu trưởng Trường tiểu họcĐoàn Thị Điểm (Hà Nội), đã có những nghiên cứu công phu và đưa ra nhận xét rất cụ thểvề những kiến thức thừa hoặc quá nặng đối với học sinh của từng khối lớp. Bà Hiền chỉ ra rằng, khối lượng kiến thức cơ bản của học sinh hiện nay lớn và rộnghơn so với trước đây. Một số nội dung của lớp trên đưa xuống lớp dưới nhưng khi cậpnhật những kiến thức này các em còn gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn như cộng trừ trongphạm vi 100 của lớp 2 đưa xuống lớp 1; phép nhân của lớp 3 đưa xuống lớp 2; 4 phéptính phân số của lớp 5 đưa xuống lớp 4… Với phân môn học vần, học sinh lớp 1 phải luyện đọc những bài có các vần rất khóđọc như: uyt, oeo, oao, uyu, oong… nhưng không dạy ở phần vần mà lại đưa vào phần tậpđọc. Đối với môn toán ở lớp 2, các tiết học bảng cộng, trừ có nhớ liền nhau làm họcsinh khó nhớ và dễ nhầm lẫn. Theo bà Hiền, một số nội dung trong chương trình toánlớp 2 hiện hành rất nặng vì đưa từ chương trình lớp 3 (cũ) xuống. Tương tự, với môntoán lớp 4, bà Hiền chỉ ra hàng loạt những kiến thức quá khó với học sinh, như vẽ haiđường thẳng vuông góc, chia cho số có hai - ba chữ số (trong khi đó không có bài dạycách nhẩm thương). Ngược lại, có những nội dung lặp đi lặp lại khiến học sinh nhàm chán. Chẳng hạnmôn toán lớp 3 bài về số 10.000 có tới 6 bài tập yêu cầu chung là “viết các số…”.Nhiều giáo viên nhận định phần hình học ở môn toán lớp 5 là quá khó đối với học sinh,đặc biệt là hình học không gian, toán chuyển động 2 động tử. Một giáo viên dạy lớp 5Trường tiểu học Thăng Long, Q.Hoàng Mai (Hà Nội), cho hay: “Nội dung này đưa vào sớmquá khiến dù giáo viên có giảng đi giảng lại thì học sinh lớp 5 cũng không thể nắmđược bản chất”. Ở môn địa lý lớp 4, khi học về Thủ đô Hà Nội, học sinh phải học số liệu về số dân,về diện tích, lược đồ… quá cũ so với sự thay đổi của thực tế vì số liệu không đượccập nhật hằng năm. Trước thực tế này, không ít giáo viên tiểu học nhận định lớp 4, lớp 5 ở tiểu họckiến thức mới và khó đưa vào dồn dập, liên tiếp, giáo viên dạy còn thấy “mệt” chứkhông nói đến học sinh. Theo bà Nguyễn Thị Hiền, SGK hiện nay đang thừa nhiều kiến thức hàn lâm và thiếukỹ năng thực hành. Do vậy, sau năm 2015 cần có nhiều bộ SGK khác nhau (được Bộ phêduyệt), tăng cường kỹ năng thực hành cho học sinh, hỗ trợ giáo viên dạy học sinh cónăng lực phân tích kiến thức, giải quyết vấn đề trong cuộc sống hơn là đưa quá nhiềukiến thức như hiện nay.
(TheoTuệ Nguyễn/Thanh Niên) |